BỆNH BẠCH HẦU – NHỮNG BIẾN CHỨNG NGUY HIỂM

Tham vấn Y khoa: Bác sĩ CKI Hoàng Như Phúc

Bài viết: Gia Gia Hưng

 Bạch hầu là tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn Corynebacterium dipphtheriae gây nên, chúng có khả năng lây lan rộng và nhanh chóng tạo thành dịch bệnh. Tình trạng nhiễm trùng ở đường thở trên hay vùng mũi hầu tạo nên lớp màng xám, mà khi hiện diện tại vùng thanh quản hay khí quản, có thể gây ra thở rít và tắc nghẽn cho người bệnh. Độc tố bạch hầu gây liệt cơ, viêm cơ tim và nhiều biến chứng khác dẫn đến tử vong. Vậy đâu là nguyên nhân, chúng lây truyền ra sao và làm thế nào để phòng bệnh một cách hiệu quả nhất?!

Trong vòng một tháng trở lại đây, tình hình dịch bệnh Bạch hầu đang có dấu hiệu trở lại, nguy cơ bùng phát và gây nguy hiểm cho người dân, đặc biệt với nhóm đối tượng là trẻ em và người già lớn tuổi.  Tại các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên và TP. HCM xuất hiện nhiều ca dương tính với bệnh Bạch hầu và trở thành những vùng dịch gây lo lắng cho cộng đồng. Tính đến ngày 11/7, cả nước có 67 ca dương tính với bệnh Bạch hầu, trong đó có 3 trường hợp tử vong vì bệnh Bạch hầu ác tính. Theo cơ quan chức năng Y tế các địa phương, các bệnh nhân này đều nhập viện trong tình trạng sốt, ho, đau họng… nhanh chóng rơi vào tình trạng nguy cấp với biến chứng tim, dẫn đến tử vong.

Triệu chứng bệnh Bạch hầu

Theo Viện dịch tễ Trung ương, bệnh Bạch hầu lây truyền dễ dàng qua đường hô hấp, qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi, họng của bệnh nhân hoặc người lành mang vi trùng khi ho, hắt hơi. Trong nhiều trường hợp, vi khuẩn của người bệnh có thể lây nhiễm và tồn tại trên bề mặt của các đồ vật xung quanh từ vài ngày đến vài tuần, ví dụ: trong sữa, nước uống sống đến 20 ngày; trong tử thi sống được 2 tuần… Bệnh dễ lây hơn trong khu vực dân cư đông đúc hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không đảm bảo.

Trung bình, sau khi hít phải vi khuẩn từ 2 đến 5 ngày, người bệnh sẽ phát bệnh. Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, sẽ có các biểu hiện nặng, nhẹ khác nhau. Triệu chứng bệnh chủ yếu là viêm họng, có lớp màng giả màu trắng do các tế bào bị viêm bám vào trong vòm họng. Một số biến chứng khác như viêm tai giữa, viêm phổi do liệt cơ hoành… Khi bệnh tiến triển nặng lên, có thể xuất hiện các triệu chứng như khó thở, khó nuốt, thay đổi thị lực, nói lắp.

Ngoài ra, các độc tố bạch hầu khi ngấm vào máu sẽ gây tình trạng nhiễm độc toàn thân, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên, thần kinh cảm giác, gây viêm cơ tim hoặc loạn nhịp tim, dẫn đến tử vong.

Một loại Bạch hầu thứ hai có thể ảnh hưởng đến da với triệu chứng đau, đỏ và sưng, loét bao phủ bởi một màng màu xám ở vùng hầu cũng có thể phát triển trong bệnh bạch hầu trên da. Mặc dù bệnh này phổ biến hơn ở vùng khí hậu nhiệt đới, bệnh bạch hầu trên da cũng xảy ra ở các nước Mỹ, Châu Âu, đặc biệt là ở những người có vệ sinh kém, sống trong điều kiện đông đúc.

Biến chứng của bạch hầu

Bạch hầu là cực kỳ hiếm ở Mỹ và các nước phát triển khác, nhờ tiêm vắc-xin rộng rãi chống lại căn bệnh này. Hiện, đã có thuốc để điều trị bệnh bạch hầu, tuy nhiên, trong giai đoạn tiến triển, bệnh bạch hầu có thể gây hại cho tim, thận và hệ thần kinh của người bệnh. Ngay cả khi điều trị, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong với tỷ lệ 3% đến 5% những người mắc bệnh bạch hầu tử vong, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ em dưới 15 tuổi.

Những biến chứng có thể xảy ra trong các trường hợp:

Đường hô hấp (thở): Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu có thể tiết độc tố và độc tố này gây tổn thương mô ở khu vực nhiễm trùng ngay lập tức – thường là mũi và cổ họng. Tại vị trí đó, nhiễm trùng tạo ra một màng cứng màu xám bao gồm các tế bào chết, vi khuẩn và các chất khác. Màng này có thể cản trở hô hấp.

Cơ tim: Độc tố bạch hầu có thể lây lan qua dòng máu và làm tổn thương các mô khác trong cơ thể, chẳng hạn như cơ tim, gây ra các biến chứng như viêm cơ tim. Tổn thương tim do viêm cơ tim có thể nhẹ, biểu hiện là những bất thường nhỏ trên điện tâm đồ hoặc nghiêm trọng dẫn đến suy tim sung huyết và đột tử.

Thần kinh bị tổn thương: Độc tố cũng có thể gây tổn thương thần kinh. Mục tiêu điển hình là dây thần kinh ở cổ họng gây khó nuốt, nếu ở cánh tay và chân cũng có thể bị viêm, gây yếu cơ. Nếu độc tố Corynebacterium diphtheriae làm tổn thương các dây thần kinh giúp kiểm soát các cơ hô hấp, các cơ này có thể bị tê liệt.

 

Bạch hầu lây truyền như thế nào:

Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae lây lan qua 3 con đường chính:

Thông qua giọt nước trong không khí. Khi một người bị nhiễm bệnh hắt hơi hoặc ho sẽ phát ra một giọt nước có chứa mầm bệnh, những người ở gần đó có thể hít phải Corynebacterium diphtheriae. Bạch hầu lây lan nhanh chóng theo cách này, đặc biệt ở những nơi đông người.

Thông qua vật dụng cá nhân chứa mầm bệnh. Một số trường hợp mắc bệnh bạch hầu từ việc chưa làm sạch các vật dụng mà người nhiễm bệnh đã sử dụng từ cốc uống nước chưa rửa của người bị nhiễm bệnh hoặc tiếp xúc với các giấy ăn mà người bệnh đã sử dụng…

Đồ gia dụng bị ô nhiễm. Một số trường hợp hiếm hơn khi bị lây nhiễm bệnh bạch hầu thông qua các vật dụng dùng chung trong gia đình, chẳng hạn như khăn hoặc đồ chơi. Người khỏe cũng có thể tiếp xúc với vi khuẩn gây bệnh bạch hầu khi chạm vào vết thương bị nhiễm trùng. Những người đã bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu nhưng chưa được điều trị có thể lây nhiễm cho những người khỏe mạnh trong vòng sáu tuần – ngay cả khi họ không có bất kỳ triệu chứng nào.

 

Các biện pháp phòng ngừa:

Để chủ động phòng chống bệnh bạch hầu, gia đình nên đưa trẻ đi tiêm chủng tiêm vaccine phòng ngừa. Vaccine phòng bệnh bạch hầu thường được phối hợp với vaccine phòng ho gà, uốn ván trong chương trình tiêm chủng mở rộng.

Đối với trẻ nhỏ: 3 mũi đầu cách nhau một tháng, tiêm nhắc lại sau một năm, mũi tiếp theo cách 7-10 năm. Đối với người lớn: 2 mũi cách nhau một tháng, mũi nhắc lại cách 9-12 tháng, mũi tiếp theo cách khoảng 10 năm.

Lưu ý, không tiêm vaccine khi sốt mà phải đợi thân nhiệt hạ về mức bình thường. Người lớn có bệnh nền cần đợi bệnh thuyên giảm rồi mới tiêm, dưới sự theo dõi của bác sĩ. Phụ nữ có thai nên tiêm phòng bạch hầu trong 3 tháng cuối thai kỳ (từ tuần 27 đến trước tuần 35), giúp bảo vệ em bé khi ra đời.

Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi, giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh. Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.

Khi có những biểu hiện nghi bạch hầu như sốt, đau họng, xuất hiện giả mạc trắng xám trong họng, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được khám, phát hiện sớm, điều trị kịp thời. Riêng người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vaccine phòng bệnh, hạn chế tụ tập đông người theo yêu cầu của cơ quan y tế.

 

(Gia Gia Hưng)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *